Tôi sẽ tiến hành phân tích sâu về mô hình "Mua chung" và "Bán chung" tại Việt Nam, bao gồm:
- Mô hình Mua chung (Group Buying):
- Mục đích và lợi ích
- Các thách thức chính
- Ứng dụng thực tế và khả năng phát triển tại Việt Nam
- Mô hình Bán chung (Collaborative Selling):
- Mục đích và lợi ích
- Các thách thức chính
- Các mô hình ứng dụng tiềm năng tại Việt Nam
- Tiềm năng phát triển và tương lai của mô hình:
- Nền tảng quản lý mua chung và bán chung
- Các xu hướng hợp tác xã số và thương mại điện tử theo hướng cộng tác
- Giải pháp để thúc đẩy mô hình này thành công:
- Cơ chế minh bạch và bảo vệ quyền lợi người mua
- Hỗ trợ pháp lý và cơ sở hạ tầng số cho doanh nghiệp nhỏ
Tôi sẽ tổng hợp các thông tin từ những nguồn đáng tin cậy và cung cấp một phân tích chi tiết về tính khả thi, cơ hội và thách thức của hai mô hình này trong thị trường Việt Nam. Tôi sẽ sớm cập nhật kết quả cho bạn.
Phân tích mô hình “Mua chung” và “Bán chung” tại Việt Nam
Mô hình Mua chung (Group Buying)
Mục đích và lợi ích
Mua chung là hình thức nhiều người cùng mua một sản phẩm/dịch vụ thông qua một trung gian (thường là website) trong thời gian nhất định để được giá ưu đãi (
Mua chung - Tuổi Trẻ Online). Mục tiêu chính là
giảm chi phí cho người mua nhờ mức chiết khấu theo số lượng: sản phẩm có thể giảm giá 30 – 90% so với giá lẻ (
Mua chung - Tuổi Trẻ Online). Ví dụ, một phiếu ăn trị giá ~200.000₫ có thể giảm còn 80.000₫ nếu đủ người mua chung (tiết kiệm ~60%) (
Mua chung - Tuổi Trẻ Online). Mô hình này còn giúp
doanh nghiệp quảng bá sản phẩm hiệu quả – coi như một hình thức marketing để thu hút nhiều khách mới (
Mô hình mua chung ở Việt Nam: Còn nhiều "cửa sáng"). Ngoài ra, mua chung tạo
trải nghiệm cộng đồng: người dùng thường chia sẻ deal cho bạn bè, người thân cùng mua để
cùng hưởng giá rẻ, tăng tính lan tỏa trên mạng xã hội (
Mô hình mua chung “thần thánh” của Pinduoduo, biến người dùng thành nhân viên sale, 4 năm lập nên đế chế 39 tỷ USD, khiến cả Alibaba và JD khiếp sợ). Đôi khi, mua chung cũng giúp người mua
tiếp cận sản phẩm hiếm hoặc đặt hàng số lượng lớn mà cá nhân khó mua lẻ (như các món hàng xách tay, đặt trước theo nhóm).
Các thách thức của mô hình
Mặc dù hấp dẫn, mô hình mua chung đối mặt nhiều
thách thức trong triển khai:
- Quản lý đơn hàng phức tạp: Cần đủ số lượng người tham gia trong thời hạn mới kích hoạt giảm giá, nên việc theo dõi số người mua và xử lý thanh toán, giao hàng đồng loạt đòi hỏi hệ thống vận hành tốt (Mô hình mua chung ở Việt Nam: Còn nhiều "cửa sáng"). Khâu giao nhận phải nhanh chóng, thanh toán tiện lợi để giữ chân khách (Mô hình mua chung ở Việt Nam: Còn nhiều "cửa sáng").
- Chất lượng và tranh chấp: Nhiều trang mua chung ở Việt Nam giai đoạn đầu đã bán hàng kém chất lượng, nguồn gốc không rõ (trở thành “thiên đường hàng Trung Quốc” giá rẻ) làm xói mòn niềm tin khách hàng (Mô hình mua chung ở Việt Nam: Còn nhiều "cửa sáng"). Khách mua voucher giảm giá nhưng gặp tranh chấp khi sử dụng – như vụ Nhóm Mua năm 2012: website tạm ngưng hoạt động khiến khách không được cửa hàng chấp nhận voucher, do nội bộ công ty giữ tiền và chưa trả đối tác (Nhìn lại Groupon và mô hình này ở Việt Nam - Báo VnExpress Kinh doanh). Những sự cố này dẫn đến mất lòng tin và tranh chấp giữa các bên.
- Thiếu minh bạch: Mô hình đòi hỏi sự minh bạch trong thông tin deal và dòng tiền. Tuy nhiên, đã có trường hợp quản lý không minh bạch – ví dụ như Nhóm Mua bị cổ đông tố cáo CEO có dấu hiệu không minh bạch, gây thiệt hại cho công ty (Nhìn lại Groupon và mô hình này ở Việt Nam - Báo VnExpress Kinh doanh). Việc thiếu rõ ràng về chiết khấu, phí trung gian (thường lên đến 50% doanh thu) (Nhìn lại Groupon và mô hình này ở Việt Nam - Báo VnExpress Kinh doanh) và trách nhiệm khi xảy ra sự cố khiến cả doanh nghiệp cung cấp lẫn người tiêu dùng đều lo ngại.
- Tính bền vững: Khách hàng mua chung chủ yếu vì giá rẻ, dễ thiếu trung thành. Doanh nghiệp nếu lạm dụng khuyến mãi sâu có thể ảnh hưởng lợi nhuận và khó giữ chân khách sau này (Nhìn lại Groupon và mô hình này ở Việt Nam - Báo VnExpress Kinh doanh). Bản thân các trang mua chung cũng chịu cạnh tranh khốc liệt (giai đoạn đỉnh cao có khoảng 100 website mua chung hoạt động tại Việt Nam (Nhìn lại Groupon và mô hình này ở Việt Nam - Báo VnExpress Kinh doanh)), chi phí quảng bá cao, lợi nhuận thấp làm nhiều trang phải đóng cửa.
Ứng dụng thực tế tại Việt Nam
Mua chung du nhập vào Việt Nam khoảng năm 2010 và nhanh chóng bùng nổ. Giai đoạn 2010–2011, hàng loạt website mua chung ra đời (nhommua.com, muachung.vn, hotdeal.vn, cucre.vn…) sao chép gần như nguyên bản mô hình Groupon (
Nhìn lại Groupon và mô hình này ở Việt Nam - Báo VnExpress Kinh doanh). Chỉ trong thời gian ngắn, các trang này thu hút lượng lớn người dùng trẻ nhờ ưu đãi “khủng”. Ví dụ, Muachung.vn sau vài tháng ra mắt (9/2010) đã có hơn
1 triệu lượt truy cập để mua sắm đủ loại mặt hàng từ thời trang, ẩm thực đến điện thoại (
Mua chung - Tuổi Trẻ Online). Sự xuất hiện của ~100 trang mua chung tạo nên
trào lưu mua sắm cộng đồng sôi động (
Nở rộ trào lưu mua sắm cộng đồng | Báo Dân trí) (
Nở rộ trào lưu mua sắm cộng đồng | Báo Dân trí). Các ngành hàng phổ biến nhất trên các trang mua chung thời đó là
ẩm thực (nhà hàng, đồ ăn thức uống),
dịch vụ làm đẹp – spa, du lịch (voucher nghỉ dưỡng, tour) và một số sản phẩm thời trang, hàng tiêu dùng (
Mua chung - Tuổi Trẻ Online) (
Nở rộ trào lưu mua sắm cộng đồng | Báo Dân trí).
Nhiều ví dụ thành công ban đầu có thể kể đến
Nhóm Mua – từng chiếm hơn
50% thị phần mua theo nhóm tại Việt Nam (
Nhìn lại Groupon và mô hình này ở Việt Nam - Báo VnExpress Kinh doanh) – và
Muachung.vn của VC Corp mở rộng ra 11 cửa hàng tại Hà Nội, TP.HCM (năm 2013) nhằm kết hợp bán trực tuyến và trải nghiệm trực tiếp (
Muachung.vn: "Chung nhau mua hàng, dễ dàng thắng lớn" | Báo Dân trí). Tuy nhiên, thị trường cũng nhanh chóng sàng lọc: Zing Deal (VNG) đóng cửa đầu 2013, Nhóm Mua gặp sự cố đình trệ cuối 2012 (
Nhìn lại Groupon và mô hình này ở Việt Nam - Báo VnExpress Kinh doanh). Sau “cơn sốt” ban đầu, chỉ còn số ít trang trụ lại và chuyển hướng. Chẳng hạn, Hotdeal.vn và Muachung.vn sau này tập trung vào bán hàng khuyến mãi như một chuyên trang thương mại điện tử chứ không đơn thuần là Groupon. Hiện nay, mô hình mua chung thuần túy không còn rầm rộ, nhưng biến thể của nó vẫn xuất hiện trên các nền tảng lớn dưới dạng
“mua theo nhóm giảm giá”. Một số sàn thương mại điện tử và ứng dụng mua sắm tại Việt Nam đã thử nghiệm tính năng khuyến khích người dùng rủ bạn bè cùng mua để được giá tốt hơn (học theo mô hình Pinduoduo của Trung Quốc). Mặc dù chưa phổ biến, xu hướng
“mua sắm kết hợp mạng xã hội” này được kỳ vọng có dư địa phát triển nhờ người dùng Việt vốn ưa thích chia sẻ và săn hàng giảm giá.
Mô hình Bán chung (Collaborative Selling)
Mục đích và lợi ích
Bán chung là mô hình nhiều người bán (thường là các hộ sản xuất nhỏ hoặc tiểu thương) liên kết lại để cùng bán hàng như một tổ chức thống nhất, qua đó tận dụng sức mạnh tập thể. Mục đích cốt lõi của bán chung là
giảm chi phí và rủi ro cho từng thành viên, đồng thời
tăng sức mạnh thương lượng với thị trường. Cụ thể, khi hợp tác bán chung:
- Các thành viên có thể mua chung đầu vào (vật tư, nguyên liệu) với số lượng lớn để được giá sỉ thấp hơn, qua đó giảm chi phí sản xuất. Ví dụ, nông dân trong hợp tác xã (HTX) Thuận Tiến (Đồng Tháp) đã “mua chung” giống, phân bón, dịch vụ cơ giới… giúp tiết kiệm ít nhất 1,5 triệu đồng/ha chi phí sản xuất (Điểm sáng mô hình “mua chung – bán chung” tại tỉnh Đồng Tháp).
- Sản phẩm của các thành viên sẽ được gộp lại bán chung với sản lượng lớn, chất lượng đồng nhất, nhờ đó đàm phán giá tốt hơn so với bán lẻ manh mún. Cũng tại HTX Thuận Tiến, lúa gộp bán cho doanh nghiệp được trả giá cao hơn thị trường khoảng 3 – 3,5 triệu đồng/ha, giúp nông dân có lợi nhuận tăng đáng kể (Điểm sáng mô hình “mua chung – bán chung” tại tỉnh Đồng Tháp). Tương tự, một nhóm hộ nuôi cá tra nhỏ lẻ liên kết thành HTX Thắng Lợi (Cần Thơ) đã cung cấp 6.000+ tấn cá/năm cho công ty xuất khẩu lớn, nhờ đó đảm bảo đầu ra ổn định và thu nhập trên 300 triệu đồng/năm cho mỗi hộ, thay vì bấp bênh tự bán (“Mua chung, bán chung” để làm giàu - Báo Cần Thơ Online) (“Mua chung, bán chung” để làm giàu - Báo Cần Thơ Online).
- Bán chung còn giúp đa dạng hóa sản phẩm và mở rộng quy mô kinh doanh. Nhiều người bán góp lại có thể cung ứng chủng loại hàng hóa phong phú hơn hoặc dịch vụ trọn gói theo chuỗi giá trị. Chẳng hạn, một hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới thường không chỉ bán nông sản thô mà còn kiêm luôn các khâu sơ chế, chế biến, đóng gói để nâng cao giá trị. Việc hợp tác cũng cho phép chia sẻ nguồn lực (kho bãi, máy móc, kênh phân phối), mỗi thành viên tập trung vào khâu mình làm tốt nhất, qua đó tăng hiệu quả chung.
Nhìn chung,
bán chung mang lại lợi ích “cộng hưởng”: tổng lợi ích đạt được lớn hơn nhiều so với từng thành viên hoạt động riêng lẻ. Thực tế cho thấy nông dân tham gia mô hình mua chung – bán chung trong HTX Thuận Tiến có lợi nhuận
cao hơn 4,5 – 5 triệu đồng/ha so với nông dân ngoài HTX (
Điểm sáng mô hình “mua chung – bán chung” tại tỉnh Đồng Tháp) (
Điểm sáng mô hình “mua chung – bán chung” tại tỉnh Đồng Tháp). Mô hình này cũng giúp tiểu thương, hộ kinh doanh nhỏ
tăng năng lực cạnh tranh trước các doanh nghiệp lớn nhờ liên kết thành một khối thống nhất.
Các thách thức của mô hình
Mô hình bán chung đòi hỏi
sự tổ chức và tin cậy lẫn nhau rất cao, do đó gặp không ít thách thức nội tại:
- Quản lý phức tạp: Khác với một doanh nghiệp đơn lẻ, nhóm bán chung (ví dụ HTX) gồm nhiều thành viên ngang hàng nên việc quản lý, ra quyết định thường khó khăn hơn. Cần có ban quản trị đủ năng lực và uy tín để điều hành minh bạch, hài hòa lợi ích các bên. Thực tế, để thuyết phục hàng trăm hộ nông dân hợp tác sản xuất theo quy trình chung, người đứng đầu HTX phải rất kiên trì vận động và chứng minh hiệu quả (“Mua chung, bán chung” để làm giàu - Báo Cần Thơ Online). Nếu ban quản lý yếu kém hoặc thiếu minh bạch, mô hình dễ đổ vỡ do mất niềm tin.
- Xung đột lợi ích: Các thành viên có thể phát sinh mâu thuẫn về chia sẻ lợi nhuận, phân bổ công việc hoặc hưởng lợi từ nguồn lực chung. Ví dụ, nếu không có quy chế rõ ràng, một thành viên có thể muốn bán riêng sản phẩm khi giá ngoài thị trường cao hơn, gây ảnh hưởng tới cam kết bán chung của cả nhóm. Việc đồng thuận về giá cả, chất lượng cũng không dễ dàng – một hộ làm tốt có thể không muốn bù rủi ro cho hộ làm chưa tốt.
- Cạnh tranh nội bộ: Mặc dù cùng hợp tác, vẫn có trường hợp các thành viên cạnh tranh nhau (ngầm) để bán được nhiều hơn hoặc tranh giành khách hàng nếu mô hình lỏng lẻo. Đặc biệt khi nhóm bán chung không phân định rõ vai trò (ai lo sản xuất, ai lo bán hàng) thì dễ dẫn đến chồng chéo, thiếu hợp tác thực sự.
- Thị trường và pháp lý: Về phía ngoài, nhóm người bán nhỏ có thể gặp bất lợi khi đối thủ lớn phản ứng (ví dụ doanh nghiệp lớn hạ giá sâu để loại bỏ kênh hợp tác xã), hoặc rào cản pháp lý như thủ tục đăng ký thương hiệu chung, tiêu chuẩn chất lượng đồng bộ. Bên cạnh đó, mô hình hợp tác xã ở Việt Nam trước đây từng thất bại trong cơ chế quan liêu bao cấp, nên một số người còn e ngại tâm lý “vào hợp tác xã mất tự do”. Việc thay đổi tư duy và thói quen sản xuất kinh doanh cá thể cũng là thách thức không nhỏ.
Ứng dụng thực tế tại Việt Nam
Mô hình bán chung tại Việt Nam thực chất đã tồn tại từ lâu dưới dạng
hợp tác xã (HTX) truyền thống, đặc biệt trong nông nghiệp. Ngày nay, mô hình này đang hồi sinh mạnh mẽ dưới dạng các
HTX kiểu mới và liên minh hộ kinh doanh ở nhiều lĩnh vực. Lĩnh vực
nông nghiệp là nơi mô hình bán chung phát triển tiêu biểu nhất: hàng ngàn HTX nông nghiệp trên cả nước đã và đang thực hiện nguyên tắc “mua chung vật tư, bán chung nông sản”. Chẳng hạn,
HTX Dịch vụ Nông nghiệp Thuận Tiến (Đồng Tháp) với 577 thành viên canh tác 750ha lúa đã tổ chức sản xuất
theo chuỗi khép kín – từ cung ứng giống, phân bón, tín dụng nội bộ đến thu hoạch, tiêu thụ – đều làm theo phương thức tập thể (
Điểm sáng mô hình “mua chung – bán chung” tại tỉnh Đồng Tháp). Kết quả, năng suất và lợi nhuận thành viên tăng rõ rệt (thêm 4,5–5 triệu₫/ha như đã nêu) (
Điểm sáng mô hình “mua chung – bán chung” tại tỉnh Đồng Tháp). Hay
HTX Thắng Lợi (Cần Thơ) tập hợp hơn 20ha nuôi cá tra của các hộ nhỏ, thương lượng ký hợp đồng bao tiêu với công ty lớn, giúp thành viên tránh được cảnh “được mùa mất giá” và mỗi hộ vẫn có lãi ngay cả lúc thị trường biến động (
“Mua chung, bán chung” để làm giàu - Báo Cần Thơ Online). (
Điểm sáng mô hình “mua chung – bán chung” tại tỉnh Đồng Tháp)
Mô tả: Nông dân hợp tác thu gom lúa sau thu hoạch để bán chung với giá cao cho doanh nghiệp – một hình ảnh điển hình về sức mạnh của mô hình hợp tác ở ĐBSCL (Điểm sáng mô hình “mua chung – bán chung” tại tỉnh Đồng Tháp) (Điểm sáng mô hình “mua chung – bán chung” tại tỉnh Đồng Tháp).
Không chỉ nông sản, mô hình bán chung còn xuất hiện trong các ngành hàng khác. Trong lĩnh vực
tiểu thủ công nghiệp, nhiều làng nghề Việt Nam đã lập hợp tác xã/tổ hợp tác để cùng quảng bá và xuất khẩu sản phẩm (ví dụ: HTX gốm Bát Tràng, HTX mây tre đan xuất khẩu…). Nhờ đó, các nghệ nhân vừa duy trì được mẫu mã riêng vừa có kênh tiêu thụ chung với thương hiệu mạnh hơn trên thị trường quốc tế. Ở mảng
phân phối bán lẻ, mô hình “liên hiệp HTX” cũng đang manh nha – tiêu biểu là hệ thống siêu thị Co.opmart do Liên hiệp HTX Thương mại TP.HCM vận hành, tập hợp vốn từ nhiều HTX thành viên để tạo nên một chuỗi bán lẻ lớn mạnh. Điều này cho thấy bán chung có thể áp dụng linh hoạt, từ quy mô nông thôn (nông dân, làng nghề) đến thành thị (chuỗi cửa hàng bán lẻ hợp tác).
Tại Việt Nam, mô hình hợp tác “mua chung – bán chung” đang được Nhà nước khuyến khích phát triển như một trụ cột của
kinh tế hợp tác. Nhiều
điểm sáng đã được ghi nhận: hàng loạt HTX nông nghiệp quy mô lớn ra đời (quỹ đất 200–1000ha, 40–100 thành viên, vốn điều lệ 1–6 tỷ đồng) (
“Mua chung, bán chung” để làm giàu - Báo Cần Thơ Online), hoạt động hiệu quả, nông dân “thoát cảnh làm ăn manh mún” và tự tin liên kết thị trường (
“Mua chung, bán chung” để làm giàu - Báo Cần Thơ Online). Liên minh HTX các tỉnh, thành phố cũng tích cực hỗ trợ HTX tham gia xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm và vay vốn phát triển (
“Mua chung, bán chung” để làm giàu - Báo Cần Thơ Online) (
“Mua chung, bán chung” để làm giàu - Báo Cần Thơ Online). Có thể nói,
bán chung đang dần chứng minh tính ưu việt tại Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh hộ kinh doanh nhỏ lẻ cần hợp lực để nâng cao sức cạnh tranh và thích ứng thị trường.
Tiềm năng phát triển trong tương lai
Xu hướng nền tảng quản lý “mua chung/bán chung”
Cùng với sự phát triển của công nghệ, cả hai mô hình mua chung và bán chung đều có cơ hội “lột xác” nhờ các
nền tảng số chuyên biệt. Về
mua chung, xu hướng
thương mại điện tử kết hợp mạng xã hội (social commerce) đang mở ra cơ hội hồi sinh mô hình này. Thành công bùng nổ của Pinduoduo tại Trung Quốc – thu hút
483 triệu người dùng thích săn hàng giá rẻ chỉ trong 4 năm (
Mô hình mua chung “thần thánh” của Pinduoduo, biến người dùng thành nhân viên sale, 4 năm lập nên đế chế 39 tỷ USD, khiến cả Alibaba và JD khiếp sợ) – cho thấy sức mạnh của việc tích hợp mua chung vào nền tảng mạng xã hội. Nhiều
startup ở Đông Nam Á cũng đang thử nghiệm “community group buying”, tận dụng Facebook, Zalo… để người dùng rủ nhau mua chung và chia sẻ lợi ích. Tại Việt Nam, các sàn thương mại điện tử lớn có thể sẽ bổ sung tính năng
“mua theo nhóm” trên ứng dụng nhằm kích thích người dùng tự quảng bá sản phẩm (đổi lại được giảm giá). Bên cạnh đó, những nhóm cộng đồng tự phát trên mạng (group Facebook, forum) chuyên
gom đơn chung cũng sẽ phát triển hơn nhờ có công cụ hỗ trợ an toàn (ví dụ: dịch vụ trung gian thanh toán giữ hộ tiền, nền tảng lập nhóm mua đảm bảo đúng hẹn giao dịch). Ngay cả các mặt hàng niche như đồ collector, thiết bị công nghệ độc lạ… vốn kén người mua lẻ cũng có thể tiếp cận thị trường nếu biết
kết nối đủ “đồng minh” qua nền tảng số.
Đối với
bán chung,
chuyển đổi số được xem là chìa khóa nâng tầm mô hình này trong tương lai. Xu hướng hình thành
“hợp tác xã số” đang được khởi xướng, nhằm kết nối các thành viên bằng hệ thống quản lý trực tuyến và liên kết trực tiếp với khách hàng, đối tác. Các tập đoàn công nghệ và viễn thông Việt Nam đã bắt đầu xây dựng
hệ sinh thái số cho nông nghiệp và HTX. Chẳng hạn, VNPT giới thiệu nền tảng
“VNPT Green” – một hệ sinh thái số giúp quản trị từ đầu vào sản xuất, vùng trồng, truy xuất nguồn gốc đến sàn thương mại điện tử đầu ra, kết nối nông dân, HTX với doanh nghiệp trên môi trường số một cách
minh bạch, hiệu quả (
VNPT builds solutions ready to support the digitalization of the agriculture industry - VNPT) (
VNPT builds solutions ready to support the digitalization of the agriculture industry - VNPT). Những giải pháp như vậy sẽ hỗ trợ đắc lực cho các nhóm bán chung quản lý hoạt động phức tạp, đồng thời mở rộng thị trường. Bên cạnh các “ông lớn”, không ít startup cũng tham gia vào mảng này. Đơn cử, công ty HUBTech dự kiến ra mắt mô hình
Digital Cooperative (hợp tác xã số) vào cuối 2024, thí điểm tại Tây Nguyên, với tham vọng kết nối trực tiếp nông dân và doanh nghiệp, cung cấp công cụ quản lý chung và huy động nguồn vốn hỗ trợ cộng đồng (
HUBTech and the aspiration to connect millions of farmers | Startup Wheel). Mô hình
“thương mại điện tử cộng tác” – nơi một nền tảng số được
sở hữu và vận hành chung bởi chính các thành viên (nhà cung cấp, người bán) – cũng được kỳ vọng sẽ xuất hiện. Đây là dạng “sàn TMĐT hợp tác” mà ở đó lợi ích được chia đều và người bán nhỏ có tiếng nói trong vận hành sàn, tạo môi trường công bằng hơn so với các sàn do tập đoàn kiểm soát.
Nhìn chung, trong tương lai,
mua chung và bán chung đều có tiềm năng phát triển nếu biết dựa vào nền tảng số. Mua chung có thể trở thành một phần của xu hướng
mua sắm tương tác (người mua vừa là khách hàng vừa là cộng tác viên giới thiệu sản phẩm). Còn bán chung sẽ tiến hóa thành những
liên minh số hóa, quản trị bằng dữ liệu thời gian thực, kết nối rộng khắp nhưng vẫn giữ được tinh thần hợp tác. Đặc biệt, sự hỗ trợ của nhà nước (qua chính sách khuyến khích kinh tế hợp tác, chuyển đổi số nông thôn) sẽ tạo đòn bẩy cho mô hình bán chung vươn xa hơn.
Mô hình hợp tác xã số và thương mại điện tử cộng tác
Mô hình
hợp tác xã số (HTX số) là một khái niệm nổi bật trong định hướng tương lai của bán chung. Luật Hợp tác xã sửa đổi năm 2023 (có hiệu lực từ 7/2024) đã mở đường cho nhiều đổi mới, cho phép HTX linh hoạt hơn về huy động vốn, liên kết kinh doanh và ứng dụng công nghệ thông tin. Trên cơ sở đó, các HTX số có thể ra đời, hoạt động hoàn toàn trên môi trường điện tử: thành viên góp vốn, họp hành, quản lý sổ sách, giao dịch với khách hàng đều qua hệ thống trực tuyến. Điều này giúp
mở rộng quy mô HTX vượt khỏi phạm vi địa phương (một HTX số có thể có thành viên trải khắp vùng, thậm chí toàn quốc). Đồng thời,
liên hiệp HTX số cũng có thể hình thành – ví dụ liên kết nhiều HTX nông nghiệp thành một nền tảng chung để tăng sức cạnh tranh. Hợp tác xã số được kỳ vọng giải quyết được điểm yếu cố hữu của HTX truyền thống là tính thủ công, manh mún, thiếu minh bạch. Khi mọi giao dịch, đóng góp được ghi nhận trên hệ thống (thậm chí ứng dụng blockchain để đảm bảo không thể gian lận), niềm tin giữa các thành viên sẽ cao hơn và quản lý gọn nhẹ hơn.
Cùng với đó, mô hình
thương mại điện tử cộng tác sẽ bổ trợ cho HTX số trong khâu thị trường. Thay vì mỗi đơn vị nhỏ lẻ tự đưa sản phẩm lên các sàn lớn (Shopee, Lazada) rồi bị chìm giữa hàng triệu sản phẩm, một nền tảng TMĐT cộng tác do chính các
nhóm người bán chung lập ra có thể tạo sự khác biệt. Chẳng hạn, một liên minh HTX nông sản có thể xây dựng
website/ứng dụng bán hàng riêng cho nông sản sạch của họ, cùng góp sức vận hành và chia sẻ chi phí. Người tiêu dùng ngày càng có xu hướng ủng hộ sản phẩm minh bạch nguồn gốc và cộng đồng (community-based), nên một sàn TMĐT thuộc sở hữu hợp tác xã có câu chuyện rõ ràng có thể thu hút khách hàng trung thành. Tất nhiên, thách thức là phải đầu tư công nghệ và marketing lớn, nhưng với sự trợ giúp của các công ty công nghệ và chính quyền (qua các chương trình xúc tiến thương mại điện tử cho địa phương, OCOP online…), mô hình này không phải viển vông. Trong tương lai, chúng ta có thể thấy những “chợ số hợp tác” nơi nông dân, tiểu thương trực tiếp bán cho người mua cuối cùng thông qua nền tảng chung do họ đồng sở hữu. Đây chính là sự kết hợp giữa tinh thần
hợp tác xã và
kinh tế nền tảng, hứa hẹn tạo ra kênh phân phối mới công bằng và hiệu quả.
Giải pháp để phát triển mô hình
Để hai mô hình mua chung và bán chung phát triển bền vững tại Việt Nam, cần đồng bộ nhiều giải pháp về cơ chế, công nghệ và chính sách:
- Tăng cường minh bạch và an toàn giao dịch: Xây dựng cơ chế minh bạch thông tin cho mọi giao dịch mua chung/bán chung. Với mua chung, các trang web/app nên công khai rõ điều kiện deal (số lượng tối thiểu, mức giảm giá thực tế, phí dịch vụ…) và cập nhật liên tục số người đã tham gia. Đặc biệt, cần áp dụng hình thức escrow (ký quỹ) hoặc ví trung gian giữ tiền: tiền người mua chung sẽ được bên thứ ba giữ đến khi hàng được giao hoặc dịch vụ được sử dụng, rồi mới chuyển cho bên bán. Cơ chế này sẽ bảo vệ người mua trước rủi ro như trường hợp Nhóm Mua giữ tiền nhưng khách không được sử dụng dịch vụ (Nhìn lại Groupon và mô hình này ở Việt Nam - Báo VnExpress Kinh doanh). Với bán chung, minh bạch thể hiện ở việc công khai giá thu mua, chi phí và lãi phân phối cho các thành viên. Sổ sách của nhóm hợp tác (đặc biệt HTX) nên được số hóa và tất cả thành viên có quyền giám sát. Những công nghệ mới như blockchain có thể hỗ trợ tạo sổ cái chung, đảm bảo tính minh bạch và truy xuất nguồn gốc sản phẩm, gia tăng niềm tin cho cả thành viên lẫn khách hàng. Ngoài ra, hợp đồng hợp tác cần chặt chẽ: ví dụ hợp đồng giữa HTX và doanh nghiệp bao tiêu nông sản nên có điều khoản bảo vệ nông dân khi giá thị trường biến động (đảm bảo mức giá tối thiểu chẳng hạn), và ngược lại có ràng buộc chất lượng để doanh nghiệp yên tâm.
- Hoàn thiện khung pháp lý và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ: Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện pháp lý cho các mô hình kinh doanh mới này. Mua chung tuy bản chất là thương mại điện tử, nhưng cần bổ sung các quy định bảo vệ người tiêu dùng trong giao dịch tập thể (như quyền hủy giao dịch nếu deal không đạt số lượng yêu cầu, trách nhiệm bồi hoàn nếu trung gian vỡ nợ...). Cơ quan quản lý cũng nên giám sát các website mua chung về nguồn gốc hàng hóa, chất lượng dịch vụ, tránh tình trạng bán hàng kém chất lượng như giai đoạn trước (Mô hình mua chung ở Việt Nam: Còn nhiều "cửa sáng"). Đối với bán chung, Luật HTX mới nên được hướng dẫn chi tiết, tạo điều kiện cho HTX kiểu mới, tổ hợp tác, liên hiệp HTX hoạt động thuận lợi (đơn giản hóa thủ tục thành lập, đăng ký kinh doanh đa ngành, cho phép huy động vốn từ quỹ hỗ trợ...). Bên cạnh pháp lý, hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho doanh nghiệp nhỏ tham gia mô hình cũng rất quan trọng. Nhà nước có thể thiết lập các nền tảng số dùng chung cho nhóm hộ kinh doanh – ví dụ cổng thông tin kết nối các hộ sản xuất với nhau và với nhà phân phối. Các chương trình đào tạo kỹ năng số, thương mại điện tử cho xã viên HTX, chủ shop nhỏ cũng nên được đẩy mạnh, giúp họ tự tin ứng dụng công nghệ vào hợp tác kinh doanh.
- Cơ chế chia sẻ lợi ích công bằng: Một giải pháp then chốt cho mô hình hợp tác là thiết kế cơ chế phân chia lợi ích hợp lý để duy trì động lực hợp tác lâu dài. Với nhóm mua chung, chính sách điểm thưởng hoặc giảm giá thêm cho người tổ chức nhóm (như hình thức “nhóm trưởng” được ưu đãi) có thể khuyến khích người dùng rủ rê bạn bè mua chung nhiều hơn. Với nhóm bán chung, cần xây dựng quy chế nội bộ rõ ràng: lợi nhuận phân phối dựa trên mức đóng góp (doanh số, sản lượng của từng thành viên) để tránh mâu thuẫn. Các quyết định quan trọng nên thông qua biểu quyết dân chủ, có sự đồng thuận cao. Khi mọi thành viên thấy quyền lợi của mình được đảm bảo và gắn liền với thành công chung, mô hình sẽ bền vững hơn.
- Ứng dụng công nghệ và nền tảng phù hợp: Khuyến khích phát triển các ứng dụng/platform chuyên cho mua chung/bán chung. Ví dụ, một ứng dụng di động cho phép người dùng tạo nhóm mua chung dễ dàng, tích hợp thanh toán an toàn và kết nối vận chuyển, sẽ tháo gỡ nhiều rào cản hiện tại của mô hình mua chung (giúp bất kỳ ai cũng có thể làm “nhóm trưởng” tổ chức mua chung một cách thuận tiện). Tương tự, xây dựng những nền tảng quản trị dành riêng cho HTX, tổ hợp tác (quản lý thành viên, quy trình sản xuất, đơn hàng đầu ra…) sẽ giúp các nhóm bán chung hoạt động chuyên nghiệp hơn mà không đòi hỏi tự đầu tư lớn. Nhà nước có thể hỗ trợ bằng cách đặt hàng các doanh nghiệp công nghệ phát triển những nền tảng này và trợ giá hoặc cho các HTX dùng thử miễn phí. Thực tế, VNPT, Viettel đã có các giải pháp bước đầu; cần nhân rộng và hoàn thiện theo nhu cầu thực tế của người dùng cuối.
- Kết nối thị trường và đối tác: Cuối cùng, để mô hình phát triển, không thể thiếu đầu ra ổn định. Do đó, cần đẩy mạnh kết nối các nhóm mua chung/bán chung với thị trường. Với mua chung, các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm nên xem đây là kênh bán hàng tiềm năng và chủ động hợp tác (đưa ra mức giá sỉ hấp dẫn khi có đơn hàng lớn, cam kết chất lượng để giữ chân nhóm khách). Với bán chung, Chính phủ và hiệp hội ngành hàng có thể đóng vai trò cầu nối, giới thiệu các HTX, nhóm liên kết tới những doanh nghiệp lớn hơn, chuỗi siêu thị, sàn thương mại điện tử. Chẳng hạn, tổ chức các hội chợ, sự kiện kết nối cung cầu dành riêng cho sản phẩm từ mô hình hợp tác (nông sản HTX, sản phẩm OCOP, hàng thủ công HTX…). Bên cạnh đó, hỗ trợ xây dựng thương hiệu chung cho sản phẩm của nhóm bán chung (ví dụ thương hiệu gạo chung của một HTX thay vì mỗi hộ một nhãn riêng) để nâng tầm giá trị và tạo niềm tin cho khách hàng. Khi thị trường đón nhận tích cực, các mô hình này sẽ có động lực phát triển tự nhiên.
Nhận định về tính khả thi tại Việt Nam
Xét về
tính khả thi, cả hai mô hình mua chung và bán chung đều
phù hợp với xu thế hợp tác và chia sẻ trong kinh doanh hiện đại, nhưng mức độ thành công có thể khác nhau giữa bối cảnh Việt Nam:
- Mua chung (Group Buying): Mô hình này từng chứng minh được sức hút tại Việt Nam trong giai đoạn đầu của thương mại điện tử, tuy nhiên cũng bộc lộ những điểm yếu dẫn đến thoái trào. Hiện nay, tính khả thi của mua chung phụ thuộc vào cách tiếp cận mới. Nếu chỉ đơn thuần lập website khuyến mãi như trước thì khó cạnh tranh, nhưng nếu tích hợp vào mạng xã hội hoặc các ứng dụng sẵn có (tận dụng tập khách hàng lớn và tính tương tác cao) thì mua chung vẫn có “đất diễn”. Người tiêu dùng Việt Nam rất nhạy cảm về giá và có tinh thần cộng đồng, do đó cơ hội cho mua chung vẫn còn, đặc biệt ở các nhóm sản phẩm dịch vụ hướng tới giới trẻ, mua theo phong trào. Điều kiện tiên quyết là phải khắc phục những tồn tại cũ: xây dựng được uy tín (giao hàng đúng cam kết, hoàn tiền nhanh nếu có sự cố), đảm bảo chất lượng để không làm khách hàng thất vọng vì “của rẻ là của ôi”. Ngoài ra, thị trường cũng cần không quá nhiều đối thủ giống nhau – chỉ vài nền tảng mua chung uy tín là đủ để tập hợp người dùng thay vì manh mún. Với sự hỗ trợ của công nghệ (AI gợi ý deal phù hợp, thanh toán điện tử an toàn) và xu hướng social commerce, mua chung có tính khả thi ở mức vừa phải tại Việt Nam: không bùng nổ đại trà như xưa nhưng có thể tồn tại như một tính năng/nhánh thị trường ngách đem lại giá trị cho cả người mua lẫn nhà cung cấp.
- Bán chung (Collaborative Selling): Mô hình này mang tính nền tảng hơn và rất khả thi trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, đặc biệt là khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn và các doanh nghiệp nhỏ. Thực tế hàng nghìn hợp tác xã kiểu mới ra đời và hoạt động hiệu quả trong vài năm qua là minh chứng rõ nhất. Bán chung phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế hợp tác của Nhà nước, được luật pháp bảo vệ (Luật HTX) và có sự hỗ trợ định hướng từ các bộ, ngành. Người dân sau thời gian làm ăn nhỏ lẻ cũng nhận thấy chỉ có hợp tác mới giúp họ tiến xa hơn – như câu chuyện các hộ nuôi cá, trồng lúa liên kết lại tránh bị thương lái ép giá (“Mua chung, bán chung” để làm giàu - Báo Cần Thơ Online). Với động lực đó, mô hình bán chung hoàn toàn khả thi và sẽ ngày càng mở rộng, không chỉ trong nông nghiệp mà còn ở các ngành hàng khác khi mà cạnh tranh thị trường đòi hỏi các liên minh người bán nhỏ để đối trọng với doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên, để thành công bền vững, các nhóm bán chung ở Việt Nam phải tiếp tục đổi mới quản trị, tránh vết xe đổ quan liêu, đồng thời nhanh nhạy ứng dụng công nghệ và liên kết thị trường. Nếu làm được, mô hình bán chung không những khả thi mà còn có thể trở thành xương sống cho khu vực kinh tế cộng đồng ở Việt Nam trong tương lai.
Tóm lại,
mua chung và bán chung đều là những mô hình kinh doanh có tiềm năng tại Việt Nam, dựa trên tinh thần “đoàn kết tạo sức mạnh”. Mua chung cần một diện mạo mới gắn với xu hướng tiêu dùng số để hồi sinh sức hút, còn bán chung đã và đang khẳng định hiệu quả, chỉ chờ được tiếp sức bởi công nghệ và chính sách để phát triển vượt bậc. Với văn hóa cộng đồng vốn có của người Việt và sự hỗ trợ đúng đắn, hai mô hình này hoàn toàn có thể song hành đóng góp vào một nền thương mại điện tử và kinh tế hợp tác thịnh vượng trong những năm tới.
Nguồn tham khảo: Mô hình Groupon và mua chung tại Việt Nam (
Nhìn lại Groupon và mô hình này ở Việt Nam - Báo VnExpress Kinh doanh) (
Nhìn lại Groupon và mô hình này ở Việt Nam - Báo VnExpress Kinh doanh); Thực trạng các website mua chung 2012 (
Mô hình mua chung ở Việt Nam: Còn nhiều "cửa sáng") (
Nhìn lại Groupon và mô hình này ở Việt Nam - Báo VnExpress Kinh doanh); Số liệu lợi ích hợp tác xã nông nghiệp (
Điểm sáng mô hình “mua chung – bán chung” tại tỉnh Đồng Tháp) (
Điểm sáng mô hình “mua chung – bán chung” tại tỉnh Đồng Tháp); Ví dụ mô hình HTX thủy sản (
“Mua chung, bán chung” để làm giàu - Báo Cần Thơ Online); Xu hướng Pinduoduo và social commerce (
Mô hình mua chung “thần thánh” của Pinduoduo, biến người dùng thành nhân viên sale, 4 năm lập nên đế chế 39 tỷ USD, khiến cả Alibaba và JD khiếp sợ); Chuyển đổi số nông nghiệp và HTX (
VNPT builds solutions ready to support the digitalization of the agriculture industry - VNPT) (
HUBTech and the aspiration to connect millions of farmers | Startup Wheel).