Theo luật dân sự 2015 một số tổ chức sẽ không có tư cách pháp nhân như: hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, văn phòng luật sư,…
Đối với các tổ chức không có tư cách pháp nhân, theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015, không phải là chủ thể của quan hệ dân sự
Các quy định này so với luật dân sự 2005
Đây là quy định mới tại BLDS 2015.
Trường hợp thành viên không có quyền đại diện mà xác lập, thực hiện GDDS nhân danh các thành viên khác của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân hoặc người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì hậu quả pháp lý của giao dịch được áp dụng theo quy định sau:
Hiện nay thì Nghị định số 151/2007/NĐ-CP của Chính phủ : Về tổ chức và hoạt động của tổ hợp tác vẫn còn hiệu lực thi hành, tuy nhiên có nhiều điểm mâu thuẫn với luật dân sự 2015, và hiện nay Chính phủ đang dự kiến ban hành nghị định mới thay thế , có những điểm lưu ý như sau:
Như vậy có thể hiểu sẽ hình thành 2 loại tổ hợp tác: tổ hợp tác có đăng ký hoạt động và tổ hợp tác không đăng ký hoạt động (nếu hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng không thường xuyên, ổn định).
Nếu đúng như vậy thì có thể là lối thoát cho nhiều hội nhóm khi muốn thành lập các hội nhóm hợp tác không phải là tổ chức xã hội nghề nghiệp (nghiệp đoàn, phường hội) hay tổ chức xã hội dân sự vì phải đăng ký vì hiện nay chưa có luật nào thay thế Luật về quyền lập hội 1957
Sang đến Nghị định số 45/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội thì càng mù mờ, không biết thành lập hội có phải xin phép hay không ? mà chỉ biết rằng một hội được thừa nhận là hoạt động hợp pháp khi được cơ quan có thẩm quyền ra quyết định cho phép thành lập.
Tiếp đến dự thảo về Luật thành lập hội thay thế về Luật về quyền lập hội 1957 cũng khá lờ mờ, không xác định được trường hợp nào phải đăng ký khi thành lập hội và trường hợp nào không phải đăng ký khi thành lập hội
Nếu theo luật dân sự 2015 thì có thể hiểu nhóm hội không đăng ký hoặc không được pháp luật chứng thực thì không phải là pháp nhân, và khi đó các cá nhân tự chịu trách nhiệm. Tuy nhiên muốn thành lập hội nhóm hợp tác thì phải đăng ký, vì theo Nghị định số 151/2007/NĐ-CP của Chính phủ : Về tổ chức và hoạt động của tổ hợp tác và Luật dân sự 2005) thì tổ hợp tác phải "có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã)", nôm na đều không đưa ra khái niệm tổ hợp tác mà chỉ đưa ra các tiêu chí, điều kiện để trở thành tổ hợp tác:
Thực tiễn thực tế hàng ngày thì tồn tại hàng loạt cách thức Tổ Hợp Tác nhưng không đăng ký chứng thực với cấp thẩm quyền, Hình thức thì rất đa dạng và phong phú (có tổ chức được hình thành để trao đổi về kinh nghiệm làm ăn mà không có hoạt động sản xuất, kinh doanh thực tế chung, có tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở một gia đình nhỏ …). Những tổ hợp tác hoạt động đơn giản, sản xuất kinh doanh nhỏ, không ổn định, mang tính mùa vụ ... xong xuôi giải tán mà cứ bắt đăng ký chứng thực thì oải quá. Với luật dân sự 2015, tổ hợp tác có thể giao dịch dân sự với tư cách cá nhân (có hay không có ủy quyền của tất cả các thành viên) ... vì đã rõ ràng như ban ngày ... chỉ cá nhân và pháp nhân mới được tham gia quan hệ pháp luật dân sự.
Điều 74. Pháp nhân
1. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình;
d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
2. Mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác.
Điều 75. Pháp nhân thương mại
1. Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên.
2. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.
3. Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Điều 76. Pháp nhân phi thương mại
1. Pháp nhân phi thương mại là pháp nhân không có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận; nếu có lợi nhuận thì cũng không được phân chia cho các thành viên.
2. Pháp nhân phi thương mại bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi thương mại khác.
3. Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân phi thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Điều 77. Điều lệ của pháp nhân
1. Pháp nhân phải có điều lệ trong trường hợp pháp luật có quy định.
2. Điều lệ của pháp nhân có những nội dung chủ yếu sau đây:
a) Tên gọi của pháp nhân;
b) Mục đích và phạm vi hoạt động của pháp nhân;
c) Trụ sở chính; chi nhánh, văn phòng đại diện, nếu có;
d) Vốn điều lệ, nếu có;
đ) Đại diện theo pháp luật của pháp nhân;
e) Cơ cấu tổ chức; thể thức cử, bầu, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm vụ và quyền hạn của các chức danh của cơ quan điều hành và các cơ quan khác;
g) Điều kiện trở thành thành viên hoặc không còn là thành viên của pháp nhân, nếu là pháp nhân có thành viên;
h) Quyền, nghĩa vụ của các thành viên, nếu là pháp nhân có thành viên;
i) Thể thức thông qua quyết định của pháp nhân; nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ;
k) Thể thức sửa đổi, bổ sung điều lệ;
l) Ðiều kiện hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi hình thức, giải thể pháp nhân.
Đối với các tổ chức không có tư cách pháp nhân, theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015, không phải là chủ thể của quan hệ dân sự
Chương VI
HỘ GIA ĐÌNH, TỔ HỢP TÁC VÀ TỔ CHỨC KHÁC KHÔNG CÓ TƯ CÁCH PHÁP NHÂN TRONG QUAN HỆ DÂN SỰ
Điều 101. Chủ thể trong quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân
1. Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Khi có sự thay đổi người đại diện thì phải thông báo cho bên tham gia quan hệ dân sự biết.
Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên khác ủy quyền làm người đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện.
2. Việc xác định chủ thể của quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình sử dụng đất được thực hiện theo quy định của Luật đất đai.
Điều 102. Tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân
1. Việc xác định tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, quyền, nghĩa vụ đối với tài sản này được xác định theo quy định tại Điều 212 của Bộ luật này.
2. Việc xác định tài sản chung của các thành viên tổ hợp tác, quyền, nghĩa vụ đối với tài sản này được xác định theo quy định tại Điều 506 của Bộ luật này.
3. Việc xác định tài sản chung của các thành viên của tổ chức khác không có tư cách pháp nhân, quyền, nghĩa vụ đối với tài sản này được xác định theo thỏa thuận của các thành viên, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Điều 103. Trách nhiệm dân sự của thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân
1. Nghĩa vụ dân sự phát sinh từ việc tham gia quan hệ dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân được bảo đảm thực hiện bằng tài sản chung của các thành viên.
2. Trường hợp các thành viên không có hoặc không đủ tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ chung thì người có quyền có thể yêu cầu các thành viên thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 288 của Bộ luật này.
3. Trường hợp các bên không có thỏa thuận, hợp đồng hợp tác hoặc luật không có quy định khác thì các thành viên chịu trách nhiệm dân sự quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này theo phần tương ứng với phần đóng góp tài sản của mình, nếu không xác định được theo phần tương ứng thì xác định theo phần bằng nhau.
Điều 104. Hậu quả pháp lý đối với giao dịch dân sự do thành viên không có quyền đại diện hoặc vượt quá phạm vi đại diện xác lập, thực hiện
1. Trường hợp thành viên không có quyền đại diện mà xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhân danh các thành viên khác của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân hoặc người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì hậu quả pháp lý của giao dịch được áp dụng theo quy định tại các Điều 130, 142 và 143 của Bộ luật này.
2. Giao dịch dân sự do bên không có quyền đại diện hoặc vượt quá phạm vi đại diện xác lập, thực hiện mà gây thiệt hại cho thành viên khác của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân hoặc người thứ ba thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
Các quy định này so với luật dân sự 2005
- Cụ thể và chi tiết hơn so với quy định đại diện của hộ gia đình, đại diện của tổ hợp tác
- Quy định việc xác định tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, quyền, nghĩa vụ đối với tài sản này rõ ràng hơn
- Quy định lại trách nhiệm dân sự của thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác'
- Quy định việc xác định tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, quyền, nghĩa vụ đối với tài sản này rõ ràng hơn
- Quy định lại trách nhiệm dân sự của thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác'
Đây là quy định mới tại BLDS 2015.
Trường hợp thành viên không có quyền đại diện mà xác lập, thực hiện GDDS nhân danh các thành viên khác của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân hoặc người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì hậu quả pháp lý của giao dịch được áp dụng theo quy định sau:
+ GDDS vô hiệu từng phần.
+ Hậu quả của GDDS do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện.
+ Hậu quả của GDDS do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện.
+ Hậu quả của GDDS do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện.
+ Hậu quả của GDDS do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện.
Hiện nay thì Nghị định số 151/2007/NĐ-CP của Chính phủ : Về tổ chức và hoạt động của tổ hợp tác vẫn còn hiệu lực thi hành, tuy nhiên có nhiều điểm mâu thuẫn với luật dân sự 2015, và hiện nay Chính phủ đang dự kiến ban hành nghị định mới thay thế , có những điểm lưu ý như sau:
Điều 3. Tổ hợp tác
1. Tổ hợp tác là tổ chức kinh tế hợp tác, không có tư cách pháp nhân, được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác, gồm từ 03 cá nhân, pháp nhân trở lên tự nguyện thành lập, cùng đóng góp vốn, sức lao động để thực hiện những công việc nhất định nhằm phục vụ nhu cầu chung của các thành viên, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm.
Tổ hợp tác đăng ký hoạt động tại Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
2. Các hình thức tổ, nhóm hợp tác không tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc không phát sinh doanh thu như câu lạc bộ, nhóm cùng sở thích, nhóm liên kết được tổ chức và hoạt động trên cơ sở hợp đồng hợp tác giữa các thành viên, không phải đăng ký hoạt động, không phải chứng thực hợp đồng hợp tác.
Trường hợp các thành viên không có thỏa thuận trong hợp đồng hợp tác thì các tổ, nhóm này có thể áp dụng các quy định của Nghị định này.
Điều 4. Giải thích từ ngữ
Trong Nghị định này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Công việc nhất định là một hoặc một số công việc thường xuyên, ổn định nhằm đạt được một hoặc một số mục đích chung do các thành viên tổ hợp tác thỏa thuận trong hợp đồng hợp tác.
2. Thời hạn hợp tác là thời gian các thành viên thỏa thuận hợp tác với nhau và ghi trong hợp đồng hợp tác. Trường hợp các bên không thỏa thuận thời hạn hợp tác thì thời hạn hợp tác kết thúc khi mục đích của hợp đồng đã đạt được.
3. Thành viên tổ hợp tác là cá nhân, pháp nhân đủ điều kiện theo quy định tại Điều 9 Nghị định này, tự nguyện ký kết hoặc gia nhập hợp đồng hợp tác, có góp vốn và/hoặc sức lao động vào tổ hợp tác, tham gia quản lý tổ hợp tác và liên đới chịu trách nhiệm về hoạt động của tổ hợp tác.
4. Tổ trưởng tổ hợp tác là người đại diện theo ủy quyền của tổ hợp tác, được các thành viên bầu, ủy quyền thay mặt cho tổ xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự. Phạm vi và nội dung ủy quyền của tổ trưởng tổ hợp tác được các thành viên thỏa thuận, thống nhất và ghi trong hợp đồng hợp tác.
5. Hợp đồng hợp tác là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về việc cùng đóng góp vốn, sức lao động để thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. Hợp đồng hợp tác phải lập thành văn bản.
6. Phần đóng góp của thành viên là giá trị vốn góp bằng tiền, bằng tài sản (vô hình hoặc hữu hình) hoặc sức lao động được quy đổi giá trị bằng tiền của một thành viên đã đóng góp hoặc cam kết góp vào tổ hợp tác.
7. Câu lạc bộ là tổ chức của những người có nhu cầu tìm hiểu, tiếp cận và trao đổi thông tin về các lĩnh vực trong đời sống. Câu lạc bộ không tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, không phát sinh doanh thu.
8. Nhóm cùng sở thích, nhóm liên kết là tổ chức hợp tác của những người sản xuất, được thành lập để trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, tiếp cận các dịch vụ, hoạt động nhất định trong sản xuất, kinh doanh. Nhóm cùng sở thích, nhóm liên kết có thể phát sinh hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng không thường xuyên, ổn định.
Như vậy có thể hiểu sẽ hình thành 2 loại tổ hợp tác: tổ hợp tác có đăng ký hoạt động và tổ hợp tác không đăng ký hoạt động (nếu hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng không thường xuyên, ổn định).
Nếu đúng như vậy thì có thể là lối thoát cho nhiều hội nhóm khi muốn thành lập các hội nhóm hợp tác không phải là tổ chức xã hội nghề nghiệp (nghiệp đoàn, phường hội) hay tổ chức xã hội dân sự vì phải đăng ký vì hiện nay chưa có luật nào thay thế Luật về quyền lập hội 1957
Nghị định 88/2003/NĐ-CP
Điều 3. Thành lập hội và nguyên tắc tổ chức, hoạt động của hội
1. Thành lập hội phải xin phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 15 Nghị định này.
2. Hội được tổ chức, hoạt động theo Điều lệ hội được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và không trái với pháp luật; hội tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự trang trải kinh phí và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Sang đến Nghị định số 45/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội thì càng mù mờ, không biết thành lập hội có phải xin phép hay không ? mà chỉ biết rằng một hội được thừa nhận là hoạt động hợp pháp khi được cơ quan có thẩm quyền ra quyết định cho phép thành lập.
Tiếp đến dự thảo về Luật thành lập hội thay thế về Luật về quyền lập hội 1957 cũng khá lờ mờ, không xác định được trường hợp nào phải đăng ký khi thành lập hội và trường hợp nào không phải đăng ký khi thành lập hội
Điều 9. Yêu cầu đối với hoạt động của hội không đăng ký
1. Hội phải có địa chỉ liên lạc cụ thể, rõ ràng.
2. Hội và hội viên của hội không được nhân danh hội tham gia các quan hệ pháp luật.
3. Hội có người đại diện theo ủy quyền của các hội viên.
4. Hội viên của hội chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về việc tham gia hoạt động hội.
Điều 10. Quyền của hội không đăng ký
1. Quyết định tôn chỉ, mục đích, điều lệ hội (nếu có) phù hợp với quy định của pháp luật.
2. Quyết định phạm vi hoạt động và cơ cấu tổ chức của hội.
3. Tổ chức thực hiện các hoạt động theo tôn chỉ, mục đích của hội và phù hợp với quy định của pháp luật.
Điều 11. Nghĩa vụ của hội không đăng ký
1. Chấp hành các quy định tại Chương II và các quy định liên quan khác của Luật này, trừ các quy định áp dụng cho hội có đăng ký.
2. Thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, điều lệ hội (nếu có).
3. Gặp gỡ, động viên, thăm hỏi, chăm sóc, giúp đỡ hội viên; cung cấp thông tin cần thiết cho hội viên theo mục đích, tôn chỉ của hội.
4. Báo cáo hoạt động của hội khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nếu theo luật dân sự 2015 thì có thể hiểu nhóm hội không đăng ký hoặc không được pháp luật chứng thực thì không phải là pháp nhân, và khi đó các cá nhân tự chịu trách nhiệm. Tuy nhiên muốn thành lập hội nhóm hợp tác thì phải đăng ký, vì theo Nghị định số 151/2007/NĐ-CP của Chính phủ : Về tổ chức và hoạt động của tổ hợp tác và Luật dân sự 2005) thì tổ hợp tác phải "có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã)", nôm na đều không đưa ra khái niệm tổ hợp tác mà chỉ đưa ra các tiêu chí, điều kiện để trở thành tổ hợp tác:
- Theo quy định tại Khoản 1, Điều 110 Bộ luật Dân sự 2005“Tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn của từ ba cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm là chủ thể trong các quan hệ dân sự”.
- Điều 1 Nghị định 151/2007 quy định: “Nghị định này quy định về tổ chức và hoạt động của tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) của từ ba cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm”.
- Điều 1 Nghị định 151/2007 quy định: “Nghị định này quy định về tổ chức và hoạt động của tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) của từ ba cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm”.
Thực tiễn thực tế hàng ngày thì tồn tại hàng loạt cách thức Tổ Hợp Tác nhưng không đăng ký chứng thực với cấp thẩm quyền, Hình thức thì rất đa dạng và phong phú (có tổ chức được hình thành để trao đổi về kinh nghiệm làm ăn mà không có hoạt động sản xuất, kinh doanh thực tế chung, có tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở một gia đình nhỏ …). Những tổ hợp tác hoạt động đơn giản, sản xuất kinh doanh nhỏ, không ổn định, mang tính mùa vụ ... xong xuôi giải tán mà cứ bắt đăng ký chứng thực thì oải quá. Với luật dân sự 2015, tổ hợp tác có thể giao dịch dân sự với tư cách cá nhân (có hay không có ủy quyền của tất cả các thành viên) ... vì đã rõ ràng như ban ngày ... chỉ cá nhân và pháp nhân mới được tham gia quan hệ pháp luật dân sự.